Mình nhớ lần đầu tiên khi học kính ngữ, mọi thứ cứ như loạn lên trong đầu. Và cuối cùng mình vẫn phải sử dụng sang cách, thi thoảng dùng vài cụm từ cho quen miệng, rồi quay sang những cụm mới, chứ không thực hành tất cả một lượt. Nhưng rồi khi không sử dụng, vì môi trường tiếp xúc toàn bạn bè, không cần thiết, thế là lại quên.
Rồi tới khi đi làm là lại bắt đầu lúng túng, những gì thầy cô dạy đã bay hết sạch ra khỏi đầu. Nhưng không có cách nào khác là học lại. Kính ngữ dùng để thể hiện sự tôn trọng đối với người nghe, nhất là với cấp trên hay khách hàng của mình. Nhưng học rồi, dùng rồi và được sửa nhiều, mình mới vỡ ra một điều, có quá nhiều thứ sách không dạy mình. Khi đó, có dùng kính ngữ thì vẫn trở thành kẻ khiếm nhã vì đã nói sai cách.
Ví dụ bằng tiếng Việt cho các bạn dễ hiểu nhé, bạn trình bày một bản báo cáo cho sếp nghe. Sau đó bạn kết lại bằng một câu “Sếp có hiểu không ạ?”. Bạn đã hiểu vấn đề chưa? Rõ ràng là câu nói rất lễ phép, nhưng lại chẳng hề lễ phép chút nào. Đáng ra bạn phải nói “Báo cáo của em có gì không rõ ràng, xin anh góp ý!”.
Ở bài này, mình mặc định các bạn đọc là những người đã biết tiếng Nhật, biết về kính ngữ. Chúng ta sẽ chỉ đi chuyên sâu vào cách dùng sai chứ mình không dịch. Nếu bạn nào chưa học mà có đọc, muốn hiểu điều gì thì cứ bình luận bên dưới, mình sẽ trả lời nhé. Giờ ta bắt đầu.
Khi chào hỏi, ta nói thế nào?
「ご苦労さまです」
Câu này hay sai ở những bạn mới học. Rõ ràng nó là kính ngữ, nhưng không dành cho nói với cấp trên hay khách hàng. ご苦労様 là câu dành cho cấp trên, senpai hay người địa vị cao hơn dùng với người dưới.
Còn khi nói với người trên mình, ta phải sử dụng お疲れさまです.

「しばらくぶりです」
Đây là cách nói rất phổ thông, nhưng với người ở trên mình thì tuyệt đối không. Các bạn hãy dùng ご無沙汰しております.
「お世話様です」
Sẽ thật là khiếm nhã nếu bạn dùng câu này với người trên mình, nó chỉ dùng để cảm ơn những người ngang hàng, hoặc dưới mình mà thôi. Với người hơn mình, bạn phải dùng お世話になっております mới là chuẩn.
「お体をご自愛くださいませ」
Cụm từ trên bắt nguồn từ ご自愛ください, với nguyên gốc chính là câu 体を大切にしてください, mang hàm ý Hãy bảo trọng nhé!.
お体を là không cần thiết, hãy lược bỏ. Có lẽ bạn sẽ nghĩ, nếu nói cụt lủn vậy không được ổn lắm. Nhưng thực ra, trong kính ngữ, bạn chỉ cần nói ご自愛ください là đủ rồi.
「つまらないものですが」
Từ xưa tới nay, khi trao tặng quà cho ai đó, người Nhật thường dùng một câu khiêm tốn là いつもお世話になっているあなたに、これくらいの品物では感謝の気持ちは伝えきれませんが. Khá là dài.
Trong những năm trở lại đây, có một cụm từ giản lược lại, hay được dùng là つまらないものを渡すなよ. Nhưng có khuynh hướng được cho là hơi khiếm nhã, đừng dùng trong công việc.
Vậy nên, bạn hãy dùng những cụm câu thay thế nhưいつもお世話になっております。ほんの気持ち程度ですが, hoặc おいしいと評判のお菓子ですので皆様で召し上がっていただきたいと思いお持ちしました nhé. Nó sẽ đem lại ấn tượng tốt hơn nhiều đó.
「厚くお詫び申し上げます」
厚く chính là từ 厚くお礼申し上げます, được nhiều bạn sử dụng khi nói câu xin lỗi. Nhưng thực ra nó lại là câu cảm ơn.
Nếu cần nói lời xin lỗi một cách sâu sắc, hãy dùng cụm từ 深くお詫び申し上げます nhé!
「させていただいております」
Cách dùng させていただく khi phản hồi lại yêu cầu của đối phương, ~いただく cũng vậy. Và lỗi ở đây là nhiều khi người nghe không có yêu cầu gì, nhưng nhiều bạn vẫn dùng.
Ví dụ, trong trường hợp ta tự giới thiệu 販売主任をさせていただいております◯◯です. Và sẽ chỉ dùng khi người đối diện đề nghị bạn giới thiệu.
Còn nếu vừa gặp mặt, bạn đã tự giới thiệu luôn, thì sẽ chỉ nói 販売主任の◯◯です là đủ rồi.
Hội thoại hàng ngày, những cụm kính ngữ thường dùng trong văn phòng.
「了解しました」
Tuy ở câu này có しました là cách nói lịch sự, nhưng đáng tiếc, 了解 lại chỉ để dùng với những người ngang hàng trở xuống mà thôi. Tuyệt đối không thể dùng cho cấp trên, hoặc khách hàng, như vậy là khiếm nhã.
Khi này bạn phải sử dụng 承知しました.
「なるほど/なるほどですね」
Khi đồng ý với người khác, hai cụm từ này rất hay được sử dụng. Nhưng nếu bạn cho rằng, dùng với cấp trên hay khách hàng vẫn ổn, vậy thì bạn đã nhầm.
Nó mang sắc thái của một câu nói dành cho người ngang hàng hoặc dưới mình mà thôi. Dù bạn có thêm ですね đằng sau cũng vô nghĩa.
Để thể hiện sự tôn kính, hãy dùng cụm từ sau: おっしゃる通りだと思います. Đừng để lỡ mồm như câu cửa miệng, bạn sẽ bị hố đó.

「おわかりいただけたでしょうか」
Câu ở trên không ổn ở chỗ nào? Nó nghe như bạn đang đánh giá hay kiểm tra năng lực của cấp trên vậy. Thử tưởng tượng bạn nói với sếp “Em nói vậy anh có hiểu không? Uầy, không ổn rồi đó.
Ở trường hợp này, tốt nhất chúng ta sẽ dùng những câu nhưここまでで何かご質問はありませんか? hoặc ご不明な点はございませんか?, bạn sẽ không còn cảm thấy áy náy về ngôn từ bạn sử dụng khi kết thúc câu chuyện nữa đâu.
「一緒に参りましょう」
Động từ 参る là khiêm nhường ngữ của 行く. Nhưng bạn đừng quên trước nó là 一緒に, nghĩa là cả hai cùng đi. Nghĩa là, bạn cũng kéo luôn cả người nghe xuống ngang bằng bạn rồi đó. Không ổn chưa nào?
Vậy ta dùng cái gì? Hãy loại bỏ một chủ thể ra khỏi câu nói, bạn hoặc người nghe. Ví dụ ta dùng: お供致します hoặc là 私も参ります.
「明日は来られますか」
来られる là khiêm nhường ngữ của 来る, và cụ thể trong câu này nó không sai, nhưng hơi thô. Và bạn đừng quên, khiêm nhường ngữ của 来る có rất nhiều cách nói khác.
Hãy thử những cách nói khác như: いらっしゃいますか, rồi là お見えになりますか, hay お越しになりますか, và cả お出でになりますか nữa. Và lựa chọn sao cho dễ nghe hơn.
「あの~人事の方は…」
Câu này không ổn ở từ あの~ đó, nó rất là bất lịch sự. Một câu nói cần đến kính ngữ không thể dùng.
Trước khi nói, tốt nhất là hãy im lặng và suy nghĩ câu nói chứ đừng bao giờ sử dụng あの~ hay え~と, rồi ê a kéo dài ra, đợi nghĩ xong thì nói tiếp. Như trong tiếng Việt, nhiều bạn cứ ờ ờ… mãi, tạo sự khó chịu cho người nghe..
「○○なんですけど」
◯◯なのですけれど là câu được rất nhiều người sử dụng. Cách nói của nó không mang lại cảm giác tôn trọng người nghe.
Khi này, bạn hãy sử dụng ◯◯ですが hoặc ◯◯なのですが nhé!
「どうしましょうか」
Tuy trong câu trên có chứa します, nhưng không có hình ảnh của khiêm nhường ngữ trong đó. Giống như nói chuyện với người ngang hàng, kẻ thấp hơn vậy.
Đối với người trên, khách hàng thì bạn phải dùng kính ngữ: いかが致しましょう.
「お召し上がりください」
Khi mời một ai đó ăn, bạn thể hiện sự tôn trọng bằng cách dùng kính ngữ 召し上がる của động từ 食べる. Nhưng bên trong câu lại có thêm お, đây là sự thể hiện tôn trọng quá mức, không cần thiết.
Ở đây, các bạn phải lược bỏ お đi, chỉ sử dụng 召し上がってください mới là chính xác.
Đây là câu rất nhiều người sử dụng nhầm, không phải là cá biệt, những người hiểu biết luôn cho rằng, đây là cái sai trong phạm vi chấp nhận được 😀
Ở phần này, vậy là chúng ta đã điểm qua các cách dùng kính ngữ, khiêm nhường ngữ sai trong những câu chào, hay những hội thoại hàng ngày trong văn phòng. Đến phần sau, mình sẽ phân tích tiếp đến một số câu kính ngữ dùng trong các cuộc họp. Phần đó sẽ khá quan trọng, bởi khi khi đó, sự giao tiếp không phải là tay đôi, không chỉ là trao đổi danh thiếp, mà là ngôn từ nơi mà là rất đông người. Các bạn đón xem tiếp phần sau nhé!