Câu chuyện về Po Haniim Per (Po Harum Cek) được ghi lại trong truyền thuyết Po Sah Ina.
Truyền thuyết Po Sah Ina
“Khoảng Năm 1440, thời vua Lê Nhân Tông, chiến tranh giữa Champa và Đại Việt diễn ra, Champa thất trận, vua Đại Việt bắt Po Sah Ina về nước làm vợ và sinh được một đứa con trai tên Lê An.
Po Sah Ina có người em trai tên là Po KaThit với hai người cháu tên KaBrah và KaBih. Sau khi bị thất trận ba cha con Po KaThit tìm cách lên vùng người Cru, Raglai, Kahow để lánh nạn. Ở đó giả làm người Raglai để làm ăn sinh sống.
Lúc này đất nước không có vua cai trị, dân chúng lầm than, các quan lại đi khắp nơi để tìm vị minh quân (Ba cha con Po KaThit). Sau khi tìm được hai anh em Po KaBrah và Po KaBih, họ bảo với các quan lại rằng: phải làm thế nào để đưa được bác của Ngài (Po Sah Ina) trở lại quê hương thì hai anh em mới lên làm vua trị vì đất nước.
Các quan lại lập mưu tính kế, cử cận thần qua nước Đại Việt tìm cách mời Po Sah Inâ trở về (Lúc này vua Đại Việt sang Trung Hoa). Đến nơi họ bắt gặp tì nữ của Po Sah Ina đi lấy nước về cho bà tắm, hai người tìm cách bỏ nhẫn vua cha Po Sah Ina vào trong chum nước, trong khi đổ nước ra tắm Po Sah Ina thấy được chiếc nhẫn và nhận ngay là nhẫn của vua cha, bà rơi lệ vui mừng, biết người đến để đón mình về.
Po Sah Ina trở lại vương quốc xưa, lúc này Po cùng hai người cháu lập kế hoạch để đánh đuổi Đại Việt. Khi vua Lê Nhân Tông trở về không thấy vợ đâu, ông đùng đùng tức giận đêm quân sang đánh Champa lần này bị thất bại nặng nề đành rút quân về nước.
Bao lần đem quân sang đánh Champa đều bị thất bại vua Đại Việt lập mưu đuổi người con trai sang vương quốc Champa, rồi mẹ con Po Sah Ina được đoàn tụ.
Sau khi đất nước được an bình Po Sah Ina gặp Po Haniim Per, hai người kết tóc se duyên thành vợ chồng chung sống với nhau. Vì họ có hai tôn giáo khác nhau nên em của Po Haniim Per (Po Klaong Biruw) tìm cách chia ngăn.
Một hôm Po Haniim Per có chuyến đi xa và dặn với vợ đúng ba tháng sẽ trở về, khi nghe thấy ba tiếng súng nổ ngoài khơi thì nàng nhớ ra đón ta, em của Po Haniim Per tên Po Klaong Biruw biết được lời căn dặn của anh trai, chưa đầy hai tháng ngài ra ngoài cửa biến cho nổ ba phát súng, tưởng rằng chồng mình trở về Po Sah Ina vui mừng mở cửa ra đón, không ngờ trước mặt là em rễ, Po Sah Ina lấy làm hỗ thẹn. Lần sau nghe thấy ba tiếng súng nổ, vì lần trước bị em rễ của mình trêu đùa nên nàng không ra mở cửa, Po Haniim Per buồn lòng tưởng rằng trái tim vợ đã đổi thay, Ngài đến chỗ công chúa Cangua ở tạm, rồi sau này lấy nhau thành vợ chồng.
Po Sah Ina biết chồng hờn giận nên tìm cách đến để chuộc tội, nhưng tất cả đều không được như ý muốn, Po Sah Ina buồn rầu trở về lập đền ngay cạnh biển và ở đó suốt cuộc đời còn lại.”

Còn với Po Haniim Per, sau khi ông lên núi (Núi Ông/Po Harum Cek/Cek Haniim Per) lánh trú và kết giao cưới công chúa Cangua (Raglai) và qua đời tại nơi đây, đây chính là khu Thánh tích, Rừng thiêng… Ngài được người dân lập đền / tháp thờ nơi đây.
Ngọn núi định vị mà Po Haniim Per lưu trú, lánh nạn chính là Núi Ông (Khu bảo tồn thiên nhiên núi Ông). Khu vực nơi ông lánh trú là một thung lũng được bao bọc bởi hệ thống núi Ông, núi Baoh Huoi và sông La Ngà. Thung lũng Ka-Pét là nơi cư trú lâu đời của người Cru (Chu-ru), Raglai, Kahow, Cham,…
Ngài cũng nhận được nhiều sắc phong thần từ thời Minh Mạng thứ 5 (1824) cho đến Khải Định năm thứ 2 (1917), với các tên gọi phiên âm chữ Hán-Việt như: Niêm Băn Phiên Dương, Po Niêm Băn.
Sắc mệnh chi bảo Khải Định
“Sắc cho Sách Man, xã Dụ, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận, trước đã phụng sự thờ Thần bản xứ Thành hoàng giữ nước giúp dân bày tỏ công đức đối với nhân dân, linh ứng xưa nay. Nay ta được soi sáng bởi sự nghiệp lớn lao, trẫm luôn luôn nghĩ đến công ân của Thần tỏ bày hiệu lệnh, nên trước phong làm Đôn Ngưng Dực Bảo Trung Hưng tôn Thần. Chuẩn cho thờ phụng thần, ta và bá tính trông mong thần giúp đỡ nhân dân. Kính thay!”
Tóm tắt nội dung Sắc mệnh chi bảo Khải Định năm thứ 2, ngày 18 tháng 3 âm lịch (08/5/1917)
Đền thờ Po Haniim Per (Po Harum Cek), được người Cham nơi đây gọi là Bimong, xưa đền vốn ở trong khu Thánh tích trong rừng sâu, là nơi Ngài ẩn cư cho đến cuối đời. Đến năm 1968, vì điều kiện chiến tranh và đường xá hiểm trở, nên cộng đồng mới xin thỉnh Ngài về thờ trong làng Palei Pacam (Khu phố Chăm, Lạc Tánh), và duy trì hành hương đến khu Thánh tích. Hằng năm, cộng đồng có 3 kì lễ lớn dành cho Ngài vào dịp Lễ Tế Trâu, Lễ Cambur, Lễ Tagok Bimong.
Po Cei Khar Mâh Bingu
Po Cei Khar Mâh Bingu là biệt danh (tên tục) của Po Cei Sah Bin Bingu, vì ông hay mặc chiếc chăn quấn màu/bằng vàng. Ngoài ra ông còn có các tên gọi khác như Po Cei, Ông vốn là hậu duệ của Po Harum Cek. Ông là vị tướng tài trong triều đại vua Po Ramé (1627-1651), ông thường cầm roi và một tấm khăn ngao du khắp xứ. Vì có mối bất hoà với Po Ramé (vụ chặt cây Kraik/Lim thần; và đánh tan quân Đại-Việt khi quân ĐV tiến vào đất Pandurangga), nên ông đã quay lại lánh trú nơi quê nhà (thung lũng Ka-Pet) và qua đời ở nơi Thánh tích này, Ngài được người dân lập đền thờ, được người Cru (Chu-Ru) chăm sóc bảo vệ khu rừng thiêng này.
Khoảng năm 1990-1991, người dân mới xin thỉnh Ngài về điểm núi cạnh làng để dễ thờ cúng Ngài.
Cũng như Po Haniim Per, Po Cei Khar Mâh Bingu cũng nhận được nhiều sắc phong thần, người Việt gọi Ngài là Cậu Hoa, và được người dân lập đền thờ cúng. Hiện có hai địa phương lập đền thờ Ngài, một ở Lạc Tánh (Tánh Linh, điểm núi gần làng), một ở Nông tang (Lâm Thuận, Hàm Phú, Hàm Thuận Bắc). Lễ lớn nhất dành cho Ngài hằng năm vào dịp Lễ Tagok Bimong.
“(Tóm tắt Sắc mệnh chi bảo): Bình thuận tỉnh, Hàm thuận phủ, Nông tang Xã. Cậu Hoa tôn thần, hộ quốc tý dân nhẫm trứ linh ứng tư, kim chánh trị trẫm tứ tuần Đại khánh tiết, kinh ban bửu chiếu đàm ân lễ long đăng trật trứ phong vi Quang ý Dực Bảo Trung Hưng Đẳng Thần, chuẩn kỳ phụng sự. Khâm tai! Khải Định cửu niên, thất nguyệt nhị thập ngũ nhật.”

Với các dòng sử kiện trên, có thể thấy nơi Thánh tích (Thung lũng Ka-Pét) là nơi sinh sống lâu đời của cộng đồng Cham, Cru, Kahow,… Khu Thánh tích được hình thành khoảng từ thế kỷ 15 ~ 17, chứa nhiều các di tích, hiện vật quan trọng có giá trị đóng góp cho lịch sử chung của dân tộc.
Khu rừng nơi Thánh tích cả người Raglai, Cru và người Cham cùng bảo vệ, gìn giữ, qua hàng trăm năm vì tính linh thiêng và cũng là bảo vệ nơi đầu nguồn nước.
Cứ mỗi bảy năm một lần, người dân cộng đồng Cham làm chuyến hành hương (3 ngày 2 đêm) đến khu rừng nơi có lăng mộ ông để thực hành các nghi lễ tôn giáo và có sự tham gia của cộng đồng Raglai, Cru ở nơi đây.

Cho đến nay, vẫn chưa có một cuộc khảo sát, khảo cổ mang tính chuyên môn đối với di tích này, ngoại trừ các nghi lễ hành hương cúng lễ của người Cham theo định kì có từ bao đời nay. Và trong nay mai, nơi Thánh tích này có nguy cơ chìm sâu dưới lòng hồ Ka-Pét, khi dự án này được xây dựng.
Nhận định giá trị của khu Thánh tích
Trong diện tích trên 600ha được quy hoạch xây dựng hồ thuỷ lợi Ka-Pét ở xã Mỹ Thạnh huyện Hàm Thuận Nam, nơi đây có hai di tích rất quan trọng được xem như là Khu Thánh địa đó là; khu lăng mộ của Pô Cei Khar Mâh Bingu và Pô Haniim Per, gắn với truyền thống hành hương của cộng đồng người Chăm vùng Pajai và BiCam thuộc 3 huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Tánh Linh ngày nay.
Trải qua gần 300 năm, đây là cánh rừng thiêng được cộng đồng người Chăm và Raglai bảo vệ một cách tuyệt đối bất khả xâm phạm. Nhờ vào chất thiêng ấy, trải qua bao biến thiên lịch sử, khu rừng này vẫn được giữ lại yếu tố nguyên sinh như vốn có từ ngàn đời cho đến hôm nay.
Toàn bộ khu vực Thánh tích lăng mộ của Pô Cei Khar Mâh Bingu có diện tích trên 10ha bao gồm: khu mộ, vòng thành, khu luyện binh lính, khu trồng trồng thuốc nam, khu vực làm ruộng …là những di tích lịch sử thiêng liêng quan trọng trong đời sống tín ngưỡng của cộng đồng người Chăm và Raglai.
Đây là chứng tích quan trọng để chứng minh sự tồn tại của Bình Thuận hơn 300 năm (1698) nói riêng và góp phần bổ sung cho lịch sử Việt Nam nói chung. Cùng với sự hình thành khai phá vùng đất Tánh Linh, Đức Linh mà Po Cei Khar Mâh Bingu là người được xem như vị tiền hiền khẩn hoang của vùng đất này.
Địa chỉ khu vực tọa lạc của di tích Pô Cei (Po Cei Khar Mâh Bingu): Khu Đá Bàn, thôn 1, xã Mỹ Thạnh, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận.
Có toạ độ được ghim trên bản đồ Gogole Maps (11°05’48.8″N 107°51’54.1″E). Cách trung UBND xã Mỹ Thạnh khoảng 3.5km đường chim bay theo hướng Tây – Bắc.
Khu Thánh tích là điểm hành hương và thực hiện các nghi lễ quan trọng có giá trị về mặt tôn giáo-tín ngưỡng của cộng đồng Cham và Raglai theo định kì. Cộng đồng có 3 kì lễ lớn dành cho Ngài vào dịp Lễ Tế Trâu, Lễ Cambur, Lễ Tagok Bimong.
P/s: Hồ Biển Lạc (dự án hồ thuỷ lợi đang bị bỏ hoang) vốn là vùng lõi có gốc địa danh từ tiếng Cham gọi là Danao Haling (Ao thiêng), cũng là tên gọi Tánh Linh ngày nay.
Tác giả: Jaya Thiên
Lưu ý: Bài viết thuộc bản quyền của người đã viết bài. Toàn bộ nội dung được đăng tải lại trên Tour Blog có thể được chỉnh lại những từ viết tắt, lỗi chính tả, đoạn quá dài,… với mục đích giúp bạn đọc dễ dàng đọc thuận lợi hơn. Một số hoặc toàn bộ ảnh có thể bị thay thế, được thêm vào bằng các ảnh tương ứng so với bài gốc nhằm mục đích bảo đảm quyền riêng tư, và nội dung thêm sinh động, xin thông cảm.